Lạc Oán - Chương 02
Đó là chiếc áo mẹ ta từng viết chữ lên, bằng máu nhỏ từ đầu ngón tay, khi ta tháo bỏ lớp áo lót của mình để đưa cho nàng. Đôi chân nàng đã gãy, ta không thể mang nàng theo.
Nhưng ta đã hứa. Ta sẽ thay nàng, mang chiếc áo này về tới kinh thành – nơi mà ta chỉ từng nghe kể, chứ chưa từng được biết.
Chúng ta trốn chạy trong những ngày dài, băng qua rừng sâu núi thẳm.
Đói thì nhai vỏ cây, khát thì uống nước suối. Không ai dám quay đầu lại.
Mẹ của A Bình nói rằng, suốt mười mấy năm sống ở Đào Trang, đây là lần đầu tiên bà cảm nhận được một tia hy vọng thực sự.
Gai rừng cào rách da, mưa gió giội ướt tóc, nhưng chúng ta vẫn không dừng bước.
Giày đã mòn nát, chân ta tứa máu, nhưng cơn đau chẳng thể làm ta dừng lại.
A Bình lên cơn sốt. Chúng ta lạc vào khu rừng rậm, vẫn không dám bước lên quan đạo.
Vì trước kia đã từng có một người phụ nữ trong làng trốn thoát, rõ ràng đã rời khỏi Đào Trang, nhưng chỉ vì đi qua quan đạo mà cuối cùng lại bị bắt trở lại. Không ai biết vì sao.
Có lẽ trời cao thương xót, khi chúng ta rơi vào tuyệt vọng, một người thợ săn đã xuất hiện và cứu ba người chúng ta.
Ông đưa chúng ta về căn nhà tre nhỏ ẩn sâu trong núi – một nơi tuy mộc mạc nhưng sạch sẽ, ấm áp lạ thường.
Người thợ săn nói rằng ông biết chút ít y lý. A Bình mê man suốt mấy ngày, phải được chăm sóc mới hạ sốt.
Ban đầu, chúng ta rất cảnh giác. Nhưng ông không hỏi gì về thân phận hay quá khứ. Chỉ lặng lẽ giúp đỡ.
Trong căn nhà ấy còn có một bé trai, có lẽ là con của ông. Cậu chừng tuổi ta, nước da ngăm nhưng đôi mắt trong trẻo sáng rực. Chính cậu là người đã băng bó vết thương nơi mắt cá chân ta.
Cậu ít nói, giống hệt cha mình.
Ta rất muốn hỏi tên cậu, nhưng rồi nhớ ra mình còn chẳng có một cái tên, nên thôi.
Ba ngày ở nơi ấy là ba ngày yên ổn hiếm hoi nhất trong ký ức tuổi thơ của ta.
Sau khi A Bình khỏi bệnh, người thợ săn chủ động nói rằng ông có thể đưa chúng ta đến bến thuyền gần nhất.
Ở đó, ông quen một chủ thương hội, người có thể giúp chúng ta lên thuyền rời khỏi nơi này an toàn.
Ta hỏi nếu muốn đến kinh thành thì sao?
Ông hơi sững người, rồi sau một lúc im lặng, đáp ngắn gọn: “Có thể.”
Ông vẫn không hỏi gì thêm.
Tại bến thuyền, ta, A Bình và mẫu thân nàng quỳ lạy ông ba lạy.
Ân nghĩa này, cả đời chẳng biết lấy gì để báo đáp.
Cậu bé trai đi cùng ông tiến lại gần ta, rút từ trong ngực áo ra một lọ gốm nhỏ: “Chân của ngươi vẫn chưa lành hẳn. Cái này giúp giảm đau.”
Ta đón lấy, ánh mắt chạm vào đôi mắt sáng ấy. Ngây ngốc nói một tiếng cảm ơn.
Chiếc lọ ấy, sau này ta luôn giữ bên mình.
Vì đó là lần đầu tiên trong đời ta, có người quan tâm đến cơn đau của ta.
Lòng tốt ấy, ta khắc sâu không quên.
Ta và A Bình chia tay tại bến thuyền. Họ chọn đi về phương Nam – về Giang Nam.
Mẹ A Bình từng hỏi, nếu ta muốn, có thể đi cùng họ.
Nhưng ta lắc đầu, ôm chặt bọc vải chứa chiếc áo dính máu trong lòng. Ta còn lời hứa cần hoàn thành.
Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, ta như đã lớn lên thành một người khác.
Có thể bạn quan tâm
Lúc chia tay, A Bình ôm chặt ta khóc nức nở. Chúng ta lớn lên bên nhau, nàng nói, không muốn rời xa ta.
Ta không có món quà nào để tặng nàng, chỉ biết thì thầm: “A Bình, ngươi và thẩm thẩm, nhất định phải sống bình an, hạnh phúc.”
Nàng lau nước mắt, móc ngón út với ta: “Ngươi cũng vậy.”
Chúng ta mỗi người lên một con thuyền. Khi thuyền rẽ nước rời bến, cả hai vẫn đứng ở đầu mũi thuyền, vẫy tay cho đến khi không còn nhìn thấy nhau nữa.
Hai tháng sau, ta đến được kinh thành.
Chủ thương hội đưa ta đến nơi rồi trao một ít bạc, nói: “Tiểu cô nương, ta đã hoàn thành điều Thiếu Nguyên nhờ cậy. Giờ đã an toàn, ta xin cáo từ. Chúc cô sớm gặp lại người thân.”
Ta không nói mình đang tìm ai, bởi nàng từng dặn, không được tiết lộ với người ngoài. Chủ thương hội đưa ta đến một khách điếm.
Sau khi ông rời đi, ta một mình đứng trên phố lớn kinh thành, choáng ngợp bởi mọi thứ vượt xa trí tưởng tượng của ta.
Ta hỏi thăm quản sự trong khách điếm, ôm chặt chiếc áo dính máu trước ngực, lần theo lời kể của nàng, tìm tới quan phủ.
Sau này ta mới biết, vị quan tóc bạc kia là cửu cửu của nàng.
Khi ta đánh trống kêu oan, dâng lên chiếc áo máu, ông lập tức chạy ra, ôm lấy áo mà khóc nức nở.
Sau khi hỏi rõ đầu đuôi, ông lập tức hạ lệnh, cho người giam ta vào ngục.
Ngục tối ẩm thấp, chẳng thấy ánh sáng mặt trời. Ta thu mình trong góc tường, ôm gối mà nghĩ, nơi này so ra cũng chẳng khác mấy hầm tối ở nhà.
Ta không biết mình bị nhốt bao lâu. Có lẽ vài tháng.
Mỗi ngày đều có cơm thịt mang đến. Lần đầu tiên trong đời ta được ăn thịt, được nằm trên chăn đệm êm mềm. Cảm giác như rơi vào cõi mộng.
Nhưng ở lâu trong ngục, không có ai trò chuyện, cũng dễ thấy cô đơn.
Ta giấu ít thịt nơi góc tường, lũ chuột tìm đến, dần dần chẳng còn sợ ta.
Chúng chí chóe tranh nhau ăn, còn ta ngồi bên cạnh, nhỏ giọng hỏi:
“Chuột nhỏ, mẫu thân ta… nàng đã được cứu chưa?”
Chuột nhỏ ngẩng lên nhìn ta, ta lại bẻ thêm một miếng thịt đặt xuống đất: “Hy vọng nàng có thể trở về với người thân.”
Ta nghĩ đến dáng vẻ cửu cửu của nàng ôm chiếc áo mà khóc, lòng ta dâng lên một nỗi buồn không tên.
Có lẽ bao nhiêu năm qua, gia đình nàng đã sống trong day dứt và đau đớn.
Còn ta, một kẻ sinh ra từ nỗi đau ấy, chưa từng có tên, chưa từng được gọi là con. Lúc ấy, lần đầu tiên trong đời, ta thực sự cảm nhận rõ ràng – mình là một đứa trẻ đáng thương, lại còn đáng khinh.
Ta không nhớ mình đã thủ thỉ với lũ chuột bao nhiêu lần thì một ngày, có người bước vào ngục giam.
Đó là một nữ nhân có dung mạo hiền hậu, mang theo khí chất tôn quý. Dù đã có tuổi, nhưng vẻ ngoài của bà vẫn trẻ trung, khiến người ta không khỏi ngưỡng mộ.
Phía sau bà là một đoàn người theo hầu. Khi ánh đèn từ phía hành lang rọi vào ngục, lũ chuột béo đang gặm thịt giật mình bỏ chạy tán loạn. Một mảnh thịt bị kéo theo, rơi ngay dưới gấu váy của bà.
Thị nữ đi phía sau quát lên đầy phẫn nộ: “Vô lễ, dám xúc phạm Thái hậu nương nương.”
Ta giật mình, vội cúi đầu thật sâu. Dù không biết Thái hậu là ai, nhưng chỉ cần nghe danh xưng ấy cũng hiểu được bà là người đứng trên đỉnh cao quyền lực.
Qua lớp cửa lao gỉ sét, ta quỳ rạp trên đất, không dám ngẩng đầu.
Cho đến khi một tiếng thở dài khẽ vang lên, giọng nói của bà không hề oai nghiêm như ta tưởng, mà lại mang theo chút dịu dàng hiếm có:
“Đứng dậy đi.”