Không Làm Thiếp, Không Cúi Đầu - Chương 06
Ta lau vết máu, kiên định nói:
“Con vào Giang phủ chưa đầy nửa năm, nhưng khoảng thời gian ấy, con ở bên tướng công còn nhiều hơn người sống bên chàng suốt hai mươi năm.”
“Trước lúc rời đời, người chàng gọi là con. Có lẽ, con là người hiểu chàng nhất.”
“Người sống lo cho mình, còn người mất, an táng thế nào chỉ là để làm vui lòng người sống. Nhưng nếu chàng có thể thành tro bụi, bay đi khắp nơi nhìn ngắm thế gian, chẳng phải tốt hơn sao?”
“Nhà luôn ở đây, chàng biết đường mà về.”
Ông không nói một lời, chỉ giơ tay chỉ ra cửa, lệnh cho ta cút.
Ta dập đầu ba cái, rồi lặng lẽ rời đi. Trên bàn, ta để lại một quả mứt táo.
Ba ngày sau, Giang Thẩm Viễn được đưa đi hỏa táng.
Tang lễ lặng lẽ, cha chàng không dự. Từ đó, ông không còn gặp ta. Cửa tiệm trên phố Tứ Tỉnh cũng bị thu hồi.
Vào mộ, chỉ là chiếc quan tài trống không.
Ta đứng bên nấm mồ, nhìn tấm bia khắc tên người chồng ngốc của mình.
“Giang Thẩm Viễn… sao chàng lại hay quên thế?”
“Ta đã nói rồi, ngày mai của chúng ta sẽ tốt đẹp.”
“Giang Thẩm Viễn… mùa đông nước lạnh, chàng có lạnh không?”
Không ai trả lời ta.
Chàng lúc sống vốn đã ít nói, khi mất càng im lặng.
Trong ký ức ta, chỉ còn ánh mắt ngây thơ, giọng nói đơn điệu: “Lâm Thanh.”
Một cơn gió nhẹ lướt qua, lành lạnh. Ta không thể nhịn được nữa, nước mắt rơi không ngừng.
“Giang Thẩm Viễn… chàng đúng là đồ ngốc.”
“Ngốc đến nỗi… chết cũng ngốc.”
“Ta sẽ đến chùa cầu cho chàng, mong kiếp sau đừng làm kẻ ngốc nữa.”
“Hãy trở thành người tài giỏi, đỗ trạng nguyên, trí tuệ xuất chúng, nhớ được những điều cần nhớ.”
Việc ta cho hỏa táng chàng gây chấn động khắp kinh thành.
Lời đồn lan nhanh như lửa cháy. Người ta xì xào bảo ta bạc bẽo, cưới chưa bao lâu đã để chàng hóa thành tro bụi.
Có kẻ ác miệng nói ta thay hết người hầu tốt, nhét vào toàn những người vụng về, để chàng bị coi thường, rồi lấy cớ đó mà cướp lấy tài sản.
Cũng có kẻ bảo ta cố tình giết chàng, chỉ vì không muốn làm vợ kẻ ngốc, muốn đoạt luôn quyền lực trong tay.
Giữa chốn nhân gian đầy điều tiếng, ta dần nhận ra: tiếng xấu, đôi khi chẳng cần làm gì cũng tự bám lên người.
Từ ngày bị thu hồi cửa tiệm ở Tứ Tỉnh Phố, ta đã nguyện rằng, khi thời cơ đến, nhất định sẽ giữ lời.
Và ta đã làm đúng như vậy.
Trên con đường dẫn đến Bạch Vân Tự ở ngoại thành, xe ngựa chen chúc như nêm, dòng người hành hương nối dài bất tận.
Giữa làn khói hương nghi ngút, ta quỳ gối giữa sân chùa, ngẩng đầu nhìn tượng Phật cao lớn. Gương mặt từ bi ấy khiến lòng ta thoáng rung động.
Đã lâu lắm rồi ta không lạy Phật.
Ngày xưa, khi mẫu thân bệnh nặng, ta từng cầu khấn khắp nơi, từ trời cao đến thần linh, nhưng cuối cùng… bà vẫn phải chịu cảnh sống không bằng chết.
Từ đó, ta không còn tin vào cầu khấn nữa.
Nhưng hôm nay, ta lạy là vì Giang Thẩm Viễn.
Ba nén hương được cắm lên bát, khói mỏng quyện bay. Ta dập đầu thành tâm.
“Giang Thẩm Viễn, kiếp sau, nếu chàng được làm người, hãy thông minh, đừng ngốc nghếch nữa.”
“Nếu chẳng may vẫn là một kẻ ngốc, vậy chàng cứ đi tìm ta. Người khác không lo được cho chàng, ta sẽ lo.”
Lạy xong, ta muốn tìm gặp Khổ Trí đại sư để thỉnh giáo.
Tiểu sa di nói đại sư đang tiếp khách.
Ta mỉm cười: “Không sao, ta có thời gian, đợi được.”
Có thể bạn quan tâm
Hai canh giờ trôi qua, cuối cùng cánh cửa cũng mở ra.
Từ bên trong bước ra là một người đàn ông cao lớn, dáng người mạnh mẽ, ánh mắt sắc lạnh. Ta nhận ra ngay – đó là Từ Kỳ Dương, người năm xưa từng cứu mạng mẫu thân ta.
Người ấy thân phận tôn quý, thường dân khó lòng gặp được.
Ta lập tức bước tới, khom người thi lễ, hai tay đặt bên hông, hành lễ cung kính.
Một nha hoàn theo hầu nhìn thấy cảnh đó liền bật cười trêu chọc:
“Chủ thượng nhà ta đi đến đâu cũng có người theo đến tận chùa. Nơi đất Phật thanh tịnh mà cũng bị làm phiền như vậy, chẳng hay ho gì đâu.”
Ta không đáp, chỉ từ tốn quỳ xuống.
Nha hoàn kia sợ hãi, luống cuống đỡ ta dậy:
“Ta chỉ đùa thôi mà. Chủ thượng, ngài thấy không? Ta đâu có làm khó cô nương này.”
Có lẽ nàng ta đã quên ta là ai, Từ Kỳ Dương chắc cũng vậy.
Nhưng ta thì không quên.
“Ngày ấy ở Lâm phủ, mẫu thân ta lâm vào cảnh nguy kịch. May nhờ có chủ thượng ra tay, mới giữ được mạng người.”
Từ Kỳ Dương đứng cao cao nhìn ta, ánh mắt không gợn sóng. Một lát sau, ngài khẽ nói:
“Chuyện nhỏ, không cần cảm ơn.”
Ta chậm rãi đáp:
“Đối với ta, đó là ơn cứu mạng. Hôm nay được gặp lại, ta phải cúi lạy tạ ơn. Nếu sau này còn cơ hội gặp lại, nhất định sẽ báo đáp.”
Nói xong, ta lại dập đầu một lần nữa rồi mới đứng lên.
Khổ Trí đại sư khi ấy mới lên tiếng:
“Nếu thí chủ không đến tìm Tiểu Linh, chắc là có điều muốn hỏi bần tăng?”
Ta gật đầu, ánh mắt có chút nặng nề:
“Người ta nói Phật độ chúng sinh. Ta đã cố gắng không oán trời, không trách người, vậy vì sao số phận của ta vẫn long đong khổ sở hơn người khác?”
“Năm mười lăm tuổi, ta đã cầm dao chém người vì bất lực. Gả cho kẻ ngốc, tưởng tìm được chút yên ổn, cuối cùng lại chịu cảnh góa bụa. Ta không thấy lối thoát.”
Đại sư đáp:
“Phật độ người có duyên. Có lẽ duyên của thí chủ vẫn chưa đến.”
Ta chau mày:
“Khi nào thì mới đến? Người có duyên nhiều như vậy, mà đời người lại ngắn ngủi. Nếu đợi không được, chẳng phải ta nên tự cứu mình?”
Khổ Trí đại sư khẽ mỉm cười:
“Xem ra… thí chủ đã gặp được Phật của chính mình rồi.”
Phụ thân của Giang Thẩm Viễn không muốn gặp ta. Nhưng ta vẫn quyết tâm phải diện kiến ông một lần.
Ta tự tay làm một mẻ kẹo hồ lô mới, lại mua thêm trống lắc, chuồn chuồn tre. Mỗi sáng, ta đứng trước cửa hàng may của Giang phủ, phát cho đám trẻ con.
Trẻ con tụ tập đông đúc, tiếng cười rộn rã, khiến cả những tiểu thư đi ngang cũng bị thu hút.
Bọn họ dù chưa mua gì, nhưng thấy tiệm đông, cũng dễ nảy sinh hứng thú.
Buổi tối, sau khi tiệm đóng cửa, ta chờ bên ngoài thư phòng của ông.
Từng là tiểu thư phủ Lâm, ta chưa từng nghĩ có ngày mình lại phải chen chân giữa đám người chợ búa. Ngỡ rằng chỉ cần dày mặt là đủ.
Nhưng thực tế thì khác.
Giọng nói vốn quen dịu dàng nay trở nên khàn đặc sau một ngày rao hàng. Uống trà ấm cũng chỉ đỡ được đôi chút, nhưng âm sắc không thể như xưa.
Điều khó chịu nhất là chứng cước khí.
Trời lạnh, ta đứng cả ngày ngoài gió. Ngón tay, ngón chân đều tê dại, sưng đỏ. Những vết thương ấy cần được hong khô, tránh ẩm ướt, nhưng ta không thể. Đeo găng tay là cách duy nhất để khách không sợ, chỉ khi đêm về mới tháo ra cho da thở.
Ta chưa từng nghĩ sẽ gặp lại Tống Thư Bạch trong tình cảnh như thế.